Vài lưu ý về bệnh sốt mò

Cập nhật lúc 17:56 / 10.01.2013

Bệnh sốt mò

Vào mùa mưa, những người đi rừng hay làm nghề trồng trọt nên bôi vào các chỗ da hở dầu DEP, DEFA, cao con hổ, dầu khuynh diệp... để tránh mò đốt. Loài sinh vật này truyền nhiễm bệnh sốt mò, trường hợp nặng có thể tử vong.

Sốt mò còn được gọi là sốt rừng rú hay Tsutsugamushi. Ổ dịch lưu hành ở các vùng phía Đông Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam. Đây là bệnh gây dịch, có ba triệu chứng điển hình là nốt loét, sưng hạch và ban dát sẩn. Tuy vậy, sốt mò cũng dễ bị nhầm với nhiều bệnh gây sốt khác.

Nguồn bệnh là dã thú gặm nhấm, chuột đồng, một số loài chim biển, chó, gà, lợn, thỏ. Côn trùng truyền bệnh là ấu trùng mò Trombiculae. Ấu trùng nằm trên mặt đất, ngọn cỏ, khi gặp người hoặc súc vật thì bám vào hút máu truyền bệnh rồi rời khỏi người, tiếp tục biến hóa thành mò trưởng thành. Mò phát triển nhiều vào các tháng mưa (tháng 5 đến tháng 11). Người hay mắc bệnh là nông dân, công nhân trồng rừng, bộ đội hành quân ở những nơi có nhiều bụi rậm, lau lách.

hình minh họa

Thời kỳ ủ bệnh 5-7 ngày, có thể 10 ngày không có dấu hiệu gì. Bệnh khởi phát có thể từ từ, có thể đột ngột. Bệnh nhân sốt cao 39-41 độ C, kéo dài 15-20 ngày, nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt, ù tai, vã mồ hôi, đau các cơ lưng, ý thức kém. Mạch chậm, huyết áp hạ. Thời kỳ toàn phát có xuất hiện triệu chứng nhiễm khuẩn, nhiễm độc toàn thân và 3 dấu hiệu điển hình:

Nốt loét: Có ở 80% số bệnh nhân bị sốt mò. Sau 24 giờ, vết đốt phồng lên, đường kính 2 mm, 4 ngày dịch đục, 5 ngày mụn vỡ, xung quanh có sẩn cứng sau đóng vẩy màu nâu đen. Vị trí vết loét thường ở chỗ da mềm, ẩm, kín như bộ phận sinh dục, hậu môn, nách, bẹn; có thể thấy ở đùi, bụng, cổ, ngực, lưng (phần lớn chỉ 1 nốt, một số trường hợp 2 nốt). Khi vết loét khỏi, da xung quanh cứng, đóng vảy màu nâu. Vết loét không ngứa, không đau rát, nên bệnh nhân không để ý đến.

hình minh họa

Sưng hạch bạch huyết: 91% trường hợp có hạch nổi ở khu vực gần vết loét. Hạch bằng hạt táo, hạt mận, di động, hơi đau. Hạch toàn thân thấy ở nách, bẹn, cổ (45%), thường nhỏ hơn hạch khu vực.

Ban dát sẩn: Mọc vào ngày thứ 3 đến ngày thứ 6, có ở 82% các trường hợp, đường kính bằng hạt kê đến 1 cm, màu mận chín, sờ hơi cứng. Ban mọc toàn thân không theo thứ tự, mọc ở mặt, ngực, bụng, tồn tại 4-5 ngày.

Xét nghiệm: Bạch cầu giảm ở giai đoạn sốt; lympho tăng; máu lắng tăng; phản ứng Weil Felix OXK dương tính.

Nếu được điều trị bằng kháng sinh thích hợp, chỉ vài ngày sốt giảm, các dấu hiệu trên sẽ hồi phục dần dần và khỏi hẳn. Những trường hợp ở thể nặng thường có biến chứng vào các cơ quan nội tạng và thần kinh như: viêm phế quản, viêm phổi kẽ, có thể dẫn đến suy hô hấp, viêm cơ tim, sốc nhiễm khuẩn, nhiễm độc, rối loạn ý thức, viêm não màng não, một số hôn mê. Tử vong do biến chứng là 1%.

(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)

Bài viết liên quan

Số lượng người truy cập

12137378