Trong những thập niên gần đây tuổi thọ người Việt Nam đã được nâng cao rõ rệt, tại các đô thị tuổi thọ bình quân đã được trên 70.

Ảnh minh họa
Đây là một bước tiến lớn và là niềm tự  hào của ngành y tế nước nhà, tuy nhiên cũng là thách thức đặt ra đối với  ngành y tế nói riêng và của toàn xã hội nói chung, làm sao bảo đảm được  công tác chăm sóc sức khỏe để các cụ được nghỉ ngơi trọn vẹn và lành  mạnh nhất sau khi đã cống hiến cho xã hội và gia đình. Một số bệnh lý  thường gặp ở tuổi già:
Các bệnh lý cơ thể: tim mạch, ung thư, tai biến mạch  máu não, các bệnh lý sa sút tâm thần và phổi được coi là 5 nguyên nhân  tử vong chính ở người già, ví dụ như cao huyết áp là một bệnh lý tim  mạch xuất hiện ở ít nhất 40% người lớn tuổi, cùng với xơ vữa động mạch  là một bệnh lý hay đi kèm cùng với bệnh tim mạch và cao huyết áp. Tuổi  già còn là một sự xuống cấp của các cơ quan cảm giác, có ít nhất 1/3  trong họ bị giảm thính lực, 1/2 các cụ trong độ tuổi 75 – 85 bị cườm,  70% bị tăng nhãn áp.
Các bệnh lý tâm thần ở tuổi già trầm cảm: trầm cảm ở  người cao tuổi có tỷ lệ tái phát và tỷ lệ tự sát gia tăng theo tuổi. Gia  đình cần lưu ý khi các cụ có những biểu hiện như tình trạng buồn, rầu  rĩ kéo dài, giảm hứng thú và thoái lui khỏi các hoạt động bên ngoài,  không muốn giao tiếp, hành vi cử chỉ chậm chạp bất thường so với tuổi,  có những lời nói phát biểu bi quan chán nản, than kém trí nhớ.
Triệu chứng trầm cảm điển hình: khí sắc trầm cảm như  mất quan tâm và hứng thú; rối loạn giấc ngủ; rối loạn sự ngon miệng, sụt  hoặc tăng cân; mất tập trung; cảm giác mệt mỏi, suy nhược; chậm chạp  hoặc kích động; mặc cảm tội lỗi, đánh giá thấp bản thân; ý nghĩ chết  chóc, tự sát.
Đặc biệt trầm cảm ở người già có khi biểu hiện giống như một tình trạng  giả sa sút tâm thần như lú lẫn, suy giảm trí nhớ. Mặt khác ở một số cụ  trầm cảm và sa sút tâm thần có thể cùng xuất hiện song song làm khó khăn  cho việc chẩn đoán và điều trị.
Các yếu tố thuận lợi làm trầm cảm: tình trạng thoái hóa não, điều kiện  sống không thích hợp và sang chấn tâm lý, các bệnh cơ thể đi kèm theo,  tiền sử trước tuổi già đã từng trầm cảm… Trầm cảm đặt ra một vấn đề hết  sức cấp thiết cho sức khỏe các cụ vì những bệnh lý cơ thể như tim mạch,  khối u… có thể thừa cơ bộc phát hoặc nặng thêm khi bị trầm cảm, ngoài ra  tự sát trong trầm cảm ở người già chiếm một tỷ lệ đáng kể.
Thuốc chống trầm cảm là phương tiện hữu hiệu nhất để điều trị và kiểm  soát trầm cảm ở người cao tuổi. Ngày nay y học đã tìm ra những nhóm  thuốc chống trầm cảm mới ngày càng hiệu quả, tác động tương đối nhanh  chóng và ít gây tác dụng phụ khó chịu lên cơ thể người già. Các liệu  pháp tâm lý nhằm nâng đỡ và giải quyết các xung đột tâm lý cũng là một  biện pháp cần phối hợp với thuốc men.
Để phòng ngừa, cần tránh cho các cụ sống cô độc, ít trò chuyện, ít giao  tiếp và tâm lý bi quan với cuộc sống và sức khỏe, trong dinh dưỡng cần  tránh thuốc lá, rượu và các chất kích thích.
Các bệnh lý tâm thần ở tuổi già lão hóa bình thường: biểu lộ qua sự khó  tiếp thu thông tin mới, quá trình tư duy chậm đi. Có thể quên nhẹ, đặc  trưng của lão hóa não nhưng hoàn toàn khác với biểu hiện thoái hóa tuần  tiến của sa sút.
Giảm sút khả năng nhận thức và sa sút tâm thần: nhóm rối loạn bệnh lý  này có tỷ lệ cao ở người cao tuổi, trong đó sa sút tâm thần là một trong  5 nguyên nhân chính gây tử vong ở người già và gây tác động nhiều tới  gia đình do các cụ thường hạn chế hoặc mất khả năng sinh hoạt độc lập,  phải phụ thuộc vào người khác. Các con số thống kê nước ngoài và VN cho  thấy có từ 7 – 10% tính chung toàn bộ các cụ từ 65 trở lên bị sa sút.
Giảm sút khả năng nhận thức (Mild Cognitive Impairment – MCI):
Các nghiên cứu cho thấy ở nhóm người trên 65 tuổi chỉ còn khoảng 20 –  40% là còn duy trì được một khả năng trí nhớ, nhận thức linh hoạt và  chính xác, phần lớn họ đều có ít nhiều sút giảm trí nhớ chủ quan khi so  với 5 – 10 năm trước đó, ví dụ như hay quên vật dụng và chỗ của chúng… Ở  mức độ nặng hơn, các chức năng nhận thức và sinh hoạt đã có khiếm  khuyết rõ ràng: suy giảm các kỹ năng nghề nghiệp, khó khăn khi nhớ tên  người, kém khả năng tập trung chú ý hơn, dễ quên những sự kiện mới xảy  ra…
Tùy vào nguyên nhân mà diễn tiến của tình trạng giảm sút trí nhớ và nhận  thức này có thể giữ nguyên trạng, nặng thêm một mức hoặc tiến triển xấu  đi vào sa sút. Các bệnh lý như tai biến mạch máu não nhẹ, kín đáo hoặc  rõ rệt, các rối loạn tâm thần, các bệnh cơ thể đều có thể là nguyên nhân  và ảnh hưởng tới diễn tiến nặng hoặc nhẹ của bệnh. Trong đó nặng nề  nhất là bệnh Alzheimer vì sẽ đưa bệnh nhân đi vào giai đoạn sa sút bất  hồi phục, có một số bệnh nhân có thể duy trì được tình trạng giảm sút  nhận thức từ 5 – 7 năm sau đó bắt đầu đi vào sa sút.
Sa sút tâm thần:
Sa sút dạng Alzheimer: bệnh lý sa sút phổ biến, chiếm khoảng 50 – 60%  các loại, nguyên nhân do thoái hóa các tế bào não bởi các mảng tuổi già  và thoái hóa dạng sợi.
Giai đoạn Alzheimer nhẹ: thường kéo dài khoảng 2 năm. Bệnh nhân quên  những sự việc quan trọng gần đây (như tuần vừa qua), tính toán hơi khó  khăn (các thầy thuốc thường yêu cầu bệnh nhân tính nhẩm lấy 100 trừ cho  7, rồi lại lấy hiệu số trừ cho 7 tiếp vài lần), dễ quên trả hóa đơn tiền  điện nước, thường những điều này người thân sống chung với bệnh nhân sẽ  nhận ra sớm nhất (đôi khi họ nhớ những việc của bệnh nhân hơn chính  họ).
Giai đoạn Alzheimer trung bình: thường kéo dài khoảng 1,5 năm hoặc hơn.  Đây là giai đoạn bệnh nhân bắt đầu phải có sự giúp đỡ của xung quanh. Họ  bắt đầu quên những sự kiện quan trọng trong tiểu sử bản thân như: tên  trường và nơi chốn đã học, tính toán càng kém hơn, nhiều khi họ mặc đồ  không phù hợp với bối cảnh và thời tiết bên ngoài. Giai đoạn này người  bệnh đã cần tới sự giúp đỡ ít nhiều từ những người xung quanh.
Giai đoạn Alzheimer mức độ nặng và trầm trọng: bệnh nhân phải có giúp đỡ  bắt buộc trong mọi sinh hoạt hàng ngày cũng như sinh hoạt cơ bản. Hai  giai đoạn này có thể kéo dài từ 4 – 8 năm. Họ có thể thậm chí quên tên  vợ con, địa chỉ nhà, không tự chăm sóc vệ sinh cá nhân, ở vào giai đoạn  cuối tiêu tiểu không tự chủ, nằm lì trên giường.
Sa sút do bệnh mạch máu não (Vascular dementia):
Dạng sa sút này chiếm khoảng 15%, trên bệnh nhân nhồi máu não với kích  cỡ và các vùng khác nhau trên não. Diễn tiến sa sút thường tuần tiến  theo kiểu bậc thang. Tuy nhiên, do nguy cơ tai biến mạch máu não tái  diễn nên có thể vẫn tiến triển nhanh, hơn nữa trong các thể sa sút hỗn  hợp, sa sút mạch máu còn làm tăng nguy cơ tử vong so với thể Alzheimer  đơn thuần.
Biểu hiện ngoài sa sút còn có thể thấy các dấu thần kinh định vị trên  lâm sàng hoặc hình ảnh học hoặc các bất thường ở đáy mắt, tiếng thổi  động mạch cảnh, buồng tim to. Các biểu hiện về cảm xúc (cảm xúc không ổn  định, bùng nổ, khoái cảm) thường nổi bật hơn ở sa sút mạch máu. Chức  năng nhận thức có thể tạm duy trì hoặc một phần hoặc một số lĩnh vực.  Một số dấu hiệu như rối loạn ngôn ngữ, đi khó có thể xuất hiện ngay từ  đầu, khác với sa sút Alzheimer chỉ có khi bệnh tiến triển.
Trong điều trị, cần lưu tâm tới điều trị các bệnh lý ảnh hưởng như cao  huyết áp, xơ vữa động mạch, tăng lipid máu, tiểu đường… cũng như trong  dinh dưỡng cần phòng ngừa bằng cách giảm chất béo, đường, mỡ, tăng cường  chất xơ, vitamin…
Các bệnh sa sút tâm thần khác:
Bệnh Parkinson: bệnh khởi phát muộn, tỷ lệ 200/100.000 với rối loạn vận  động (cử động chậm, run khi nghỉ, nét mặt đơ, tăng trương lực cơ, đi  bước nhỏ và chúi) kèm sa sút trong 40 – 80% trường hợp, thường xuyên  trầm cảm.
Bệnh Pick: sa sút thoái hóa hiếm gặp và khó phân biệt  trên lâm sàng với Alzheimer. Biểu hiện sa sút với hành vi giải ức chế.  Tổn thương ở vùng trán và thái dương với teo não, thoái hóa thể Pick.
Lo âu: thường xuất hiện chung với tình trạng giảm sút  nhận thức MCI. Các cụ lo âu một cách quá mức nhiều chủ đề (bệnh tật,  kinh tế, gia đình…).
Loạn tâm thần: thường thấy là loạn tâm thần hoang tưởng  với các ý tưởng sợ bị xâm hại, bị mất cắp tiền và tài sản, các cụ nghi  ngờ mọi người, đôi khi cả người thân, thường xuyên kiểm tra, phòng vệ  (đêm thức để canh trộm cắp, kiểm soát tiền bạc…).
Tóm lại, trong chiến lược chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi, đặc biệt  là các bệnh tâm thần kinh, cần lưu ý phát hiện sớm các dấu hiệu của  trầm cảm và suy giảm trí nhớ, nhận thức và sa sút trí tuệ. Một số liệu  pháp điều trị hiện nay như thuốc chống trầm cảm, thuốc ngăn quá trình sa  sút trí tuệ có thể cải thiện đáng kể hoặc ít nhất làm chậm lại quá  trình thoái hóa não nếu được điều trị sớm và tích cực.
Bên cạnh đó, dinh dưỡng hợp lý và khoa học (giảm chất béo, đường, mỡ,  tăng cường chất xơ, vitamin…) và phong cách sống tránh cô đơn, tăng  cường giao tiếp xã hội, điều chỉnh tâm lý bi quan, tập thể dục đều đặn  là chiến lược phòng ngừa từ xa tốt nhất cho mọi loại bệnh cơ thể cũng  như tâm thần kinh.
Hoàng An